Mọi người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới, bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng khác theo sự lựa chọn của mình (Điều 19,2 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Liên Hiệp Quốc biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982). (Everyone shall have the right to freedom of expression; this right shall include freedom to seek, receive and impart information and ideas of all kinds, regardless of frontiers, either orally, in writing or in print, in the form of art, or through any other media of his choice.)

D I Ễ N   Đ À N

 “Gác lại quá khứ” thế nào đây hở ông Thủ tướng ???
Ban Biên Tập TDNL (01.07.2008 số 54) Tiếng Nói của người dân Việt Nam đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận

BIỂU TÌNH CHỐNG VC NGUYỄN TẤN DŨNG 2008 USA

Cách đây gần một năm, tối ngày 22-06-2007, Chủ tịch nước CSVN Nguyễn Minh Triết đã cùng bộ sậu đến Dana Point, Quận Cam, California, Hoa Kỳ, gọi là để gặp gỡ bà con người Việt. Tại đó, trong khách sạn Saint Regis lèo tèo mấy chục Việt kiều thân cộng (đang khi bên ngoài cả mấy ngàn người Việt tỵ nạn biểu tình đả đảo), Nguyễn Minh Triết đã cố gắng cất giọng: “Tôi mong bà con của mình hãy vì quê hương đất nước, gác bỏ những khác biệt của mình, hãy đoàn kết lại, cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, hùng cường… Nếu ai đó còn có ngần ngại, còn có bất đồng, chúng ta hãy nói với các bạn ấy rằng mẹ hiền Việt Nam lúc nào cũng dang rộng cánh tay đón nhận tất cả những người con của mình về với Tổ quốc. Tôi cũng thông báo với những người có cử chỉ bất đồng rằng những thông tin đưa đến cho họ chưa đầy đủ. Họ chưa có điều kiện trực tiếp quay về quê hương đất nước, trực tiếp chứng kiến những đổi thay nhanh chóng, những tiến bộ đang diễn ra trên đất nước chúng ta”. Tối ngày 25-6-2008 mới rồi, tại khách sạn Hilton ở Houston, bang Texas, Hoa Kỳ, trước khoảng 30 Việt kiều thân cộng, thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng cũng nén nỗi nhục (vì bị cả ngàn đồng bào bên ngoài với rừng cờ vàng phản đối) để lên tiếng như sau: “...Bà con hãy hướng về quê hương bằng mọi đường, mọi nẻo... Quê hương là vĩnh hằng, trong khi quá khứ đã là lịch sử, cần gác lại ...Chúng ta hãy cùng gác lại quá khứ, nhìn vào mục tiêu chung này để chung sức xây dựng đất nước… Làm được cái gì, dù nhỏ nhoi thì làm, một tiếng nói ủng hộ cũng là đóng góp... Đừng mặc cảm mãi với quá khứ, nhất là khi đất nước còn không ít khó khăn. Khi vào Nhà Trắng, tôi nghe một nhóm kiều bào hô đả đảo Thủ tướng mà thấy buồn. Tôi nghĩ chưa hẳn họ thù ghét gì cá nhân Thủ tướng, mà chỉ là sự mặc cảm với quá khứ và sự thiếu thông tin về tình hình Việt Nam ...” “Gác lại quá khứ”, “thiếu hụt thông tin”, “hòa giải hòa hợp”… rõ ràng cả hai lãnh đạo CS đều cùng một bài bản như nhau, một bài bản quá cũ mèm !

1- Ông thủ tướng kêu gọi “gác lại quá khứ, nhìn về tương lai để chung sức xây dựng đất nước”. Thật ra thì chẳng ai muốn quá khứ trở nên một khối đá đè nặng lên tâm hồn, khiến cuộc đời mình không tiến tới nổi. Nhưng cái quá khứ mà ông và đồng đảng đã gây ra trên dải đất quê hương nước Việt, trên hồn xác mọi con dân Việt quá cay đắng quá, quá tàn bạo. Sự cay đắng tàn bạo này còn kéo dài mãi tới hôm nay. Nếu muốn đồng bào gác lại quá khứ thì chính người CS phải sửa chữa những lỗi lầm và đền bù những tội ác đã gây ra cho đất nước dân tộc từ lúc họ xuất hiện trên đất Việt mãi tới giờ này.

Trước hết, vào ngày 30-4-1975 và những ngày trước đó, hằng chục ngàn thương bệnh binh và phế binh VNCH đang trong các Tổng y viện và Quân y viện đã bị CS các ông tàn nhẫn quẳng ra ngoài đường hay hạ sát ngay trên giường bệnh sau khi chiếm miền Nam. Các thương phế binh này hiện mất cả danh dự vì bị vu khống là “phản quốc, đánh thuê” và đang dở sống dở chết trong cảnh khốn cùng. Ông thủ tướng và đảng CS có nghĩ đến trách nhiệm bồi thường tổn hại vật chất lẫn tinh thần cho họ để giúp gác lại quá khứ chăng?

Thứ hai, ngay sau “ngày giải phóng miền Nam”, ông thủ tướng và đồng đảng đã “giải phóng” luôn nhà cửa ruộng vườn cùng nhiều tài sản khác của “bọn ngụy”, đặc biệt của “ngụy quân ngụy quyền”, của các “tôn giáo phản động” (và không phản động) dưới nhiều chiêu bài và lý cớ khác nhau, nghe rất chính đáng và hợp luật nhưng lại chỉ là ngang nhiên cướp bóc, chiếm đoạt tàn nhẫn. Việc chiếm đoạt này còn tiếp tục cho đến hôm nay với hàng triệu hộ nông dân và thị dân bị đẩy ra lề đường, ăn xin kiếm sống, với hàng chục triệu công nhân bị bóc lột đến tận xương tủy, phải bán máu nuôi thân, với hàng triệu thiếu nữ bị đẩy vào thân phận lao nô hay tình nô, đến phải bán trôn nuôi miệng… Muốn giúp gác lại quá khứ, thì đảng và nhà nước phải hoàn trả tất cả những tài sản và quyền lợi ấy lại, đồng thời bồi thường thiệt hại đúng mức cho các nạn nhân.
Thứ ba, không thông qua bất cứ hình thức luật pháp chính đáng nào, ông thủ tướng và đồng đảng đã bắt giam ít nhất là 222.809 quân nhân viên chức cán bộ VNCH, đưa vào hơn 200 trại tập trung trong mục đích vừa tẩy não vừa cho chết dần chết mòn trong các xó rừng mà các ông gọi là “cải tạo”, và hành hạ tinh thần lẫn thể xác cho đến 17 năm mới thả hằng trăm người cuối cùng. Việc tống giam những người khác biệt chính kiến còn tiếp tục mãi đến hôm nay với hàng trăm tù nhân lương tâm qua những màn bắt cóc đê tiện, thẩm vấn khủng bố, xử án bịt miệng, giam cầm bất nhân rồi tìm cách lưu đầy biệt xứ. Hãy bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần cho ngần ấy tù nhân chính trị chế độ cũ và tù nhân lương tâm chế độ mới đã, rồi hãy nói đến việc lãng quên quá khứ nghe ông!
Thứ tư, trong 10 năm đầu kể từ 1975, lúc mà ông thủ tướng và đồng đảng gọi là “VN bước vào kỷ nguyên ánh sáng, chủ nghĩa xã hội đẹp thêm năm tháng”, thì hàng triệu dân miền Nam (và chẳng ít dân miền Bắc) không thể chịu nổi sự kềm kẹp chính trị lẫn cảnh sống khốn cùng, đã đứt ruột lìa bỏ quê cha đất tổ, liều chết tìm đường đến bến bờ tự do, dù phải vùi thây dưới lòng biển cả, tan nát cuộc đời trong vịnh Thái Lan, gục chết giữa rừng già biên giới, bơ vơ nơi trại tỵ nạn xứ người… Lúc ấy, các ông đã gọi họ là bọn phản nước, lũ ôm chân đế quốc, đám ham bơ thừa sữa cặn, phường đĩ điếm lưu manh, thứ rác rưởi của xã hội…. Nay thì dù có uốn lưỡi gọi họ là “máu thịt của máu thịt VN, khúc ruột thân thương ngàn trùng, bộ phận không thể tách rời khỏi cộng đồng dân tộc”… nhưng nếu Bộ Chính trị không chánh thức xin lỗi Cộng đồng Tị nạn hải ngoại bằng cách rút lại những lời sỉ nhục đó, thật lòng tỏ thiện chí trọng dụng nhân tài trong một thể chế dân chủ tự do, trái lại chỉ bày trò chiêu dụ, gài bẫy (với sự hợp tác của tay chân trong lẫn ngoài nước) để thực thi Nghị quyết 36, xóa bỏ cờ vàng của họ, lừa đồng bào đem tiền của, chất xám về đầu tư để rồi lột sạch, thì đừng nói chuyện bỏ qua quá khứ!
Thứ năm, sau khi chiếm được miền Nam, nơi đã hít thở không khí tự do và làm quen với dân chủ hơn 20 năm trời …ông thủ tướng và đồng đảng đã áp dụng chính sách cai trị độc tài sắt máu, chuyên chế cộng sản, tước đoạt tất cả các nhân quyền căn bản về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội mà thế giới và chính các ông thừa nhận, tự đặt mình làm chúa tể tối cao, xem toàn dân như một bầy đàn, một đám con cái, con ở, con nợ, con bài, con tin… Chưa hết, các ông còn tự tiện thâu tóm tài nguyên quốc gia, đất đai lãnh thổ vào tay đảng để ban phát cho kẻ ngoan ngoãn vâng phục chế độ, để cống nạp cho Đại hán Bắc triều hầu giữ vững ghế quyền lực, để bán hoặc cho ngoại nhân thuê hầu lấy tiền bỏ túi. Nay muốn mọi người Việt trong ngoài nước “quên đi quá khứ”, các ông phải trả những nhân quyền căn bản cho 85 triệu đồng bào, hoàn lại những tài sản vật chất và tinh thần mà đảng, đảng viên mọi cấp, cán bộ lớn nhỏ đang tước đoạt của công dân hoặc các tập thể. Trước mắt, trả tự do cho mọi nhà bất đồng chính kiến đã dũng cảm đứng lên đòi các ông thực hiện đúng đắn những điều khoản Hiến pháp về tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do bầu cử, tự do lập hội… soạn lại một bản Hiến pháp dân chủ, đa đảng đa nguyên… đề ra một đường lối giáo dục văn minh nhân bản, tạo nên những công dân tự do cho nước chứ không phải là những thần dân nô lệ cho đảng. (Tham khảo Phạm Bá Hoa, Thư gởi thủ tướng đảng CSVN).

2- Ông thủ tướng cho rằng vì đồng bào hải ngoại “thiếu thông tin về hiện tình VN...” nên mới có những nhận định sai lầm và những hành động sai trái. Xin lỗi ông, thiếu thông tin là chính các đảng viên thấp cấp và quần chúng nhân dân trong nước đang bị đầu độc bằng cả một nền thông tin công cụ một chiều hay bị cấm cản tiếp cận một nền thông tin đa dạng tự do. Còn những ai có thông tin đầy đủ đều thấy rằng căn cứ vào những tuyên bố và hứa hẹn với những kết quả việc làm của ông trong tư cách là Thủ tướng suốt 2 năm qua (06-2006 đến 06-2008) thì chính ông đã chứng tỏ không đạt các mục tiêu đã vạch: 1- Nói là cương quyết chống tham nhũng, nhưng sau hai năm làm TT và trực tiếp chỉ huy chống tham nhũng, cuối cùng ông đã phải đầu hàng bằng cách thả hoặc thăng chức các quan tham nhũng, đang khi lại bịt miệng báo chí và bỏ tù các ký giả tố tham nhũng. 2- Ông nói là quyết đưa kinh tế VN phát triển liên tục đồng thời không để lạm phát cao hơn mức tăng trưởng kinh tế.

Nhưng sau hai năm làm TT, ông đã để cho nạn lạm phát cao nhất từ 15 năm qua, gần gấp 4 lần mức tăng trưởng kinh tế. Nạn lạm phát phi mã này đang phá hủy kinh tế VN và đẩy nhiều triệu nhân dân vào cảnh khốn cùng! 3- Trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là người đứng đầu chính phủ, ông đã không đủ dũng cảm phản đối nhà cầm quyền Trung Cộng khi họ đưa ra những quyết định sai trái và ngang ngược đối với một phần lãnh thổ quốc gia. Chẳng những thế, chính phủ của ông còn nhìn nhận công khai việc Trung Cộng xâm lăng trắng trợn Tây Tạng. Điều này chỉ khuyến khích Bắc Kinh tiếp tục chủ nghĩa bá quyền ngay cả với VN. 4- Trong lãnh vực dân quyền, chỉ mới hai năm cầm quyền, ông đã đưa ra những Nghị định cấm đình công, Chỉ thị cấm báo chí… Đây là những hành động ngăn cấm công dân sử dụng các quyền chính đáng của mình. Tệ hại hơn nữa là mới chỉ hai năm cầm đầu chính phủ, số các tù chính trị và tôn giáo dưới thời ông đã đạt kỉ lục. Điều này chứng minh là chính phủ của ông đang chà đạp trắng trợn các quyền tự do căn bản của nhân dân căn cứ theo Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền cũng như ngay cả Hiến pháp 1992 của chế độ. (Tham khảo Âu Dương Thệ, Hai năm làm thủ tướng của NTD).

Thành ra chẳng lạ gì mà đồng bào hải ngoại thấy ông ở đâu là “dàn chào” ông ở đó, khiến ông và tùy tùng phải trốn chui, lòn cửa hậu, thay đổi chương trình xoành xoạch. Đó là do quá khứ và cả hiện tại đầy sai lầm và tội ác của ông và đảng ông mà chính các ông hẳn biết cách xóa bỏ và sửa chữa.

Ban Biên Tập (số 54, ngày 01-07-2008)
-Nhấn vào Link này để "download" (save as) Bán nguyệt san TDNL ở dạng (format): .pdf, sẽ chậm (xin kiên nhẫn!), nếu bạn không sử dụng đường dây cao tốc Internet DSL, nhưng toàn bộ mỗi số báo 32 trang sẽ giữ dạng nguyên thủy, như là 1 file duy nhất: http://www.tdngonluan.com/pdf/TuDoNgonLuan_So54_1July2008.pdf
.......................................................................................................................
Chân    thành    cảm    tạ    qúy    vị    ghé    thăm    trang    nhà    website    Tự    Do    Thông    Tin    Ngôn    Luận    cho    toàn    dân    Việt Nam

Copyright © 2006 www.tdngonluan.com/Email: tdngonluan@yahoo.com/Webmaster: legraphic@yahoo.com - All rights reserved.